Lịch sử hình thành và phát triển
Ngày 06/10/1969, Công ty Điện lực, tiền thân của Tổng công ty Điện lực miền Bắc ngày nay, được thành lập theo Quyết định số 106/QĐ-TC của Bộ trưởng Bộ Điện và Than nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ về cải tiến quản lý kinh tế, ngày 06/10/1969, Bộ trưởng Bộ Điện và Than Nguyễn Hữu Mai đã ký ban hành quyết định số 106/QĐ-TC thành lập Công ty Điện lực trực thuộc Bộ Điện và Than, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế. Đồng chí Phạm Khai được cử làm Giám đốc Công ty.
Như vậy, kể từ đây Công ty Điện lực (tiền thân của Tổng công ty Điện lực miền Bắc) chính thức ra đời, hoạt động với đầy đủ tư cách pháp nhân và là một công ty quốc doanh lớn của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Việc chuyển từ một Cục quản lý nhà nước sang hình thái sản xuất kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, đồng thời làm nhiệm vụ quản lý nhà nước trên lĩnh vực điện năng (phía Bắc), đây là một bước chuyển hóa quan trọng về cơ chế, không những tạo ra một chất lượng phát triển mới gắn chặt những nhiệm vụ chính trị của một ngành kinh tế quan trọng với hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây còn là một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành điện lực ở Việt Nam sau này.
Nhiệm vụ của Công ty Điện lực là: “…tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch sản xuất, kế hoạch kinh doanh của Công ty do Bộ giao, bảo đảm hoàn thành kế hoạch một cách toàn diện, với năng suất cao; chất lượng tốt, giá thành hạ, kinh doanh có lãi…” và “… chỉ đạo trực tiếp và quản lý về mọi mặt các đơn vị sản xuất, phân phối, sửa chữa điện thuộc Công ty, tạo mọi điều kiện cho các đơn vị thành viên hoạt động sản xuất - kinh doanh thuận lợi theo đúng chế độ, thể lệ quản lý kinh tế của Nhà nước và của Bộ”. Đây là nhiệm vụ chính trị xuyên suốt trong quá trình từ khi ra đời, trưởng thành và phát triển Công ty Điện lực và cũng là của Tổng công ty Điện lực miền Bắc sau này.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, trong bối cảnh nguồn điện và lưới điện cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị điện thuộc thế hệ cũ, lạc hậu, trình độ tự động hóa thấp, chủ yếu vận hành thủ công, hơn nữa lại bị chiến tranh tàn phá hết sức nặng nề, trước tình hình đó đòi hỏi Công ty phải tập trung mọi khả năng, trí tuệ và tranh thủ thời gian đế quốc Mỹ “tạm ngừng ném bom miền Bắc” Công ty đã chỉ đạo khẩn trương khôi phục sản xuất, củng cố các mặt quản lý, sắp xếp lại tổ chức, chuẩn bị các điều kiện vật chất - kỹ thuật để vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu, vừa xây dựng và mở rộng các công trình điện mới có công suất và sản lượng lớn hơn, hiện đại hơn, đáp ứng được yêu cầu trước mắt và chuẩn bị đón nhận những thời cơ, thách thức mới.
Trong những tháng năm ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước nhiều nhà máy điện và các trạm biến áp đầu mối bị đánh phá ác liệt như Nhà máy điện Vinh (Nghệ An), nhà máy điện Thượng Lý (Hải Phòng), Nhà máy điện Uông Bí (Ninh Bình), Yên Phụ (Hà Nội), Nhà máy điện Thác Bà (Yên Bái), Nhà máy điện Thanh Hóa (Thanh Hóa),... đỉnh cao nhất của giai đoạn đánh phá ác liệt miền Bắc xã hội chủ nghĩa là năm 1972, trong tháng 6/1972 nhà máy điện Uông Bí, nhà máy điện Vinh bị đánh phá tới 6 lần. Cuối tháng 12/1972 lại diễn ra cuộc đọ sức quyết liệt nhất trong 12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" Công ty Điện lực lại chứng minh bằng thực tế "giữ vững dòng điện, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Qua hai đợt đánh phá miền Bắc, các cơ sở của Công ty Điện lực đã phải đương đầu với 1.634 trận đánh phá, nhưng với tinh thần "vừa sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu", Công ty đã tập trung mọi năng lực, công sức, trí tuệ của cán bộ công nhân viên để thực hiện củng cố và tổ chức lại sản xuất, chấn chỉnh các khâu: kinh doanh, phân phối điện; làm tốt việc điều hoà phụ tải, tốc chiến tốc thắng khôi phục các cơ sở điện lực bị tàn phá do chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Đã khôi phục xong về cơ bản nguồn điện (các nhà máy điện) và hoàn thiện hệ thống lưới điện, đảm bảo dòng điện vận liên tục. Đến cuối năm 1973 đã đưa 12 lò hơi, 11 tổ máy vào vận hành, nâng công suất lên 231 MW, phục hồi được 186 km đường dây cao thế, toàn bộ đường dây hạ thế, 12 trạm biến áp 110 kV và các trạm trung gian, sản lượng điện được nâng cao, chất lượng điện được cải thiện rõ rệt, đưa dòng điện đến mọi cơ sở sản xuất và phục vụ đời sống của nhân dân miền Bắc.
Với lòng quả cảm vì “Tổ quốc cần điện như cơ thể cần máu” nhiều tấm gương đã anh dũng hy sinh vì mục tiêu "Giữ vũng dòng điện trong mọi tình huống", sau hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã có 121 cán bộ, công nhân viên của Công ty đã anh dũng hy sinh vì dòng điện thân yêu.
Đất nước thống nhất, khó khăn chồng chất của những ngày đầu vừa ra khỏi chiến tranh, Công ty Điện lực có nhiệm vụ hết sức nặng nề, vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, vừa phải san sẻ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công nhân lành nghề vào tiếp quản các cơ sở vật chất của ngành điện lực ở miền Nam. Công ty đã hỗ trợ và chi viện tối đa cho miền Nam với việc lựa chọn cán bộ giỏi, công nhân viên có tay nghề cao để cử vào giúp đỡ khôi phục Nhà máy thủy điện Đa Nhim và đường dây 230 kV Đa Nhim - Sài Gòn; điều phối lực lượng cán bộ, công nhân trong các cơ sở điện lực miền Bắc chuyển vùng, chuyển nhiệm vụ, hình thành đội ngũ cán bộ nòng cốt cho Công ty Điện lực miền Nam và Công ty Điện lực miền Trung (tiền thân của Tổng công ty Điện lực miền Nam và Tổng công điện lực miền Trung ngày nay).
Năm 1976, sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, nước nhà hoàn toàn thống nhất về thể chế chính trị, trên đất nước ta hình thành một ngành điện Việt Nam thống nhất gồm 3 Công ty Điện lực quản lý tương ứng ứng với ba miền Bắc - Trung - Nam, theo đó các công ty có tên gọi tương ứng là Công ty Điện lực miền Bắc (tiền thân là Công ty Điện lực), Công ty Điện lực miền Nam và Công ty Điện lực miền Trung trực thuộc Bộ Điện và Than.
Thực hiện Kế hoạch 5 năm 1976-1980, Công ty điện lực chủ trương khôi phục, củng cố hoàn chỉnh, mở rộng các cơ sở điện sẵn có. Chỉ đạo sát sao việc khảo sát, thi công nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nhà máy thuỷ điện Hoà Bình; khôi phục, hoàn chỉnh các trạm 110 kV, xây dựng mới đường dây 220 kV đầu tiên ở miền Bắc, tiếp tục mở rộng lưới điện phân phối, cải tạo lưới điện hạ thế của các thành phố lớn, đặc biệt là ở Thủ đô Hà Nội. Với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, công nhân viên của Công ty, đến cuối năm 1980, tổng công suất nguồn đạt 590,4 MW; đường dây điện các cấp điện áp từ 3 kV đến 110 kV có 9.286,5 km; tổng dung lượng máy biến áp các loại là 2.560 MVA. Về phụ tải, công suất sử dụng của công nghiệp Trung ương tăng hơn 1,6 lần, của công nghiệp địa phương tăng hơn 1,4 lần; công suất sử dụng cho bơm thuỷ lợi tăng 1,2 lần.
Năm 1981, Bộ Điện lực được thành lập theo Nghị định số 170-CP ngày 23/4/1981 của Hội đồng chính phủ. Theo quyết định số 15 ĐL1/TCCB ngày 09/5/1981, Công ty Điện lực miền Bắc được điều chuyển từ Bộ Điện và Than về trực thuộc Bộ Điện lực và Công ty Điện lực miền Bắc được đổi tên thành Công ty Điện lực 1. Các Sở quản lý phân phối điện khu vực được đổi thành các Sở điện lực tỉnh, thành phố.
Cũng trong giai đoạn này, thực hiện Nghị quyết 149/CT thống nhất quản lý lưới điện quốc gia của Chính phủ, trong năm 1981 Công ty Điện lực 1 bắt đầu tiếp nhận các lưới điện và các tổ chức quản lý lưới điện đấu nối với lưới điện quốc gia như Thái Bình, Hải Dương, Hà Tuyên…và các lưới điện phụ tải đang do các địa phương quản lý (hầu hết các tỉnh đều có). Tiếp theo đó từ năm 1988-1990 tiếp nhận các tổ chức và lưới điện của các địa phương nằm ngoài hệ thống như Cao Bằng, Sơn La, Lai Châu và tiếp nhận hầu hết các tổ chức quản lý điện của các huyện trên miền Bắc.
Năm 1987, Bộ Năng lượng được thành lập theo Nghị định số 47/HĐBT ngày 05/3/1987 của Hội đồng Bộ trưởng (trên cơ sở sáp nhập các Bộ Điện lực với Bộ Mỏ và Than), Công ty Điện lực 1 là đơn vị hạch toán độc lập trực thuộc Bộ Năng lượng.
Đất nước đổi mới, mở cửa hội nhập; quá trình hội nhập trên các lĩnh vực diễn ra hết sức mạnh mẽ với những tiến bộ vượt bậc của KHCN, đã tạo ra những cơ hội và vận hội mới, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới to lớn đối với Công ty Điện lực 1. Năng lực của Công ty vốn đã không đáp ứng yêu cầu sử dụng điện của khu vực phía Bắc trước đây, nay càng trở nên bất cập so với yêu cầu của công cuộc đổi mới, bộc lộ các mặt yếu kém cả về năng lực phục vụ lẫn khai thác kinh doanh. Nhưng mặt khác, chính bản thân công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã tạo ra những thời cơ thuận lợi cho ngành điện nói chung và Công ty nói riêng. Chủ trương điện lực phải đi trước một bước của Đảng và Nhà nước ngày càng trở thành vấn đề bức xúc, được cụ thể hoá trong chiến lược đầu tư phát triển của ngành. Công ty đã nhận rõ vị trí, chức năng của mình, mạnh dạn suy nghĩ, năng động, vận dụng sáng tạo chớp lấy thời cơ mà công cuộc đổi mới mang lại.
Thành tựu nổi bật của thời kỳ này được mở đầu bằng việc đưa 4 tổ máy (440 MW) của nhiệt điện Phả Lại vào vận hành an toàn, bảo đảm ổn định cho hệ thống, tránh được tình trạng "ăn đong" về công suất, nâng sản lượng điện lên hàng tỷ kWh (năm 1986, sản xuất đạt sản lượng 2,759 tỷ kWh, tăng hơn 7,06% so với năm 1985; năm 1987, đạt 3,064 tỷ kWh; năm 1988, sản xuất đạt 3,870 kWh…).
Sau nhiều năm thi công và khẩn trương xây dựng, đến cuối tháng 12-1988, tổ máy 1 của nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình được đưa vào vận hành an toàn, liền sau đó hàng năm đưa thêm từ 1 đến 2 tổ máy khác vào hoạt động, tăng thêm 20% sản lượng điện, tạo sự chuyển biến về chất của hệ thống điện miền Bắc.
Năm 1990, Công ty đã đưa điện về phục vụ miền Trung, đẩy lùi giải quyết một phần lớn tình trạng thiếu điện của khu vực này. Thực hiện Nghị quyết số 22 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VI) về chủ trương điện phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá miền núi, Công ty đã xây dựng và đưa vào vận hành đường dây 110 kV Thái Nguyên - Cao Bằng, trạm 110 kV Tuyên Quang (năm 1990), các đường dây Mộc Châu - Mai Châu, Cẩm Phả - Tiên Yên và trạm 110 kV Tiên Yên…, nhờ đó đã đưa điện lưới quốc gia (lưới 110 kV) đến các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Năm 1995, cùng với sự ra đời của Tổng công ty Điện lực Việt nam (nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam), Công ty Điện lực 1 được chuyển từ Bộ Năng lượng về trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt Nam từ 01/4/1995 theo quyết định số 96 NL/TCCB-LĐ ngày 04-3-1995 của Bộ Năng lượng. Chức năng quản lý Nhà nước về điện cũng được chuyển giao về Bộ công nghiệp và các Sở công nghiệp tại các địa phương; đồng thời một số đơn vị trực thuộc Công ty Điện lực 1 như: Các Nhà máy phát điện (Hoà Bình, Phả Lại, Uông Bí, Ninh Bình, Thác Bà…), Sở Điện lực Hà Nội, Sở Truyền tải điện, Trung tâm máy tính, Trung tâm thông tin, Ban QLDA lưới điện miền Bắc đã được tách ra khỏi Công ty về trực thuộc Tổng công ty Điện lực Việt nam. Các Sở Điện lực tỉnh, thành phố được đổi tên thành các Điện lực tỉnh. Công ty chuyển sang một giai đoạn mới, thực hiện cơ chế: Kinh doanh điện năng và phát triển lưới điện trên miền Bắc. Với địa bàn quản lý rộng lớn trên miền Bắc, chủ yếu là vùng đồng bằng, nông thôn và miền núi, vùng sâu, vùng xa,…
Có thể nói từ giai đoạn này trở đi Công ty Điện lực 1 hoàn thành vai trò sứ mệnh lịch sử của mình đó là về cơ bản đã xây dựng và hoàn thiện khép kín hệ thống điện miền Bắc Việt Nam, bàn giao sứ mệnh phát tải cho Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, Công ty chỉ còn thực hiện nhiệm vụ chính là phân phối điện năng. Thực hiện đào tạo một đội ngũ cán bộ, công nhân viên có bản lĩnh chính trị, vững vàng về chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ quản lý vận hành hệ thống điện. Đồng thời cũng là nơi cung cấp đội ngũ cán bộ cho ngành điện Việt Nam. Một lần nữa thực tế đã khẳng định vai trò của Công ty Điện lực 1 là“chiếc nôi” của ngành điện Việt Nam.
Giai đoạn 2000-2009, đây là giai đoạn bản lề sau những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Công ty Điện lực 1 đã không ngừng thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh kết hợp với các phong trào thi đua sâu rộng, vì vậy đã phát huy được sức mạnh của tập thể Cán bộ CNV trong toàn Công ty trong lao động sản xuất. Công ty đã xây dựng từng lộ trình, đặt ra các chỉ tiêu, kế hoạch và đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch của từng năm, không ngừng bổ sung, đầu tư mới hệ thống lưới điện, chống quá tải, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngành điện, phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất - kinh doanh và đời sống của nhân dân, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt từ 10,3 – 13%. Công ty luôn là đơn vị dẫn đầu trong toàn ngành về công tác tiếp nhận lưới điện trung áp, hạ áp nông thôn và bán điện đến từng hộ dân nông thôn, Công ty đã thực hiện đưa điện về 220/222 huyện (99%), 4.406/4605 xã (95,7%) và 5.128.715 số hộ dân nông thôn có điện lưới quốc gia (93%). Năm 2007, Công ty Điện lực 1 được trao “Cúp vàng ISO” và Ông Nguyễn Phúc Vinh – Giám đốc Công ty được trao biểu tượng “Nhà quản lý giỏi năm 2007”. Đây là giải thưởng nhằm tôn vinh các doanh nghiệp, các doanh nhân có thành tích xuất sắc đóng góp cho sự phát triển lớn mạnh của cộng đồng và doanh nghiệp trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Năm 2010, Tổng công ty Điện lực miền Bắc được thành lập theo quyết định số 0789/QĐ-BTC ngày 05/2/1010 của Bộ Công thương trên cơ sở tổ chức lại Công ty Điện lực 1 và tiếp nhận trở lại các Công ty TNHH MTV Điện lực Hải Phòng, Hải Dương và Ninh Bình. Tổng công ty được tổ chức theo hình thức Công ty TNHH MTV và hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Việc chuyển đổi mô hình tổ chức từ mô hình Công ty Điện lực 1 thành Tổng công ty Điện lực miền Bắc là một ghi nhận và đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong sự phát triển của Tổng công ty cả về lượng và về chất - đây là mô hình ổn định, lâu dài và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước cùng như tình hình phát triển của thế giới - như lời phát biểu của đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải tại buổi Lễ ra mắt Tổng công ty Điện lực miền Bắc ngày 01/4/2010.
Ngay sau khi đi vào hoạt động theo mô hình tổ chức mới, Tổng công ty đã nhanh chóng bắt tay vào công tác sắp xếp mô hình cơ cấu tổ chức, kiện toàn bộ máy quản lý từ Tổng công ty đến các Đơn vị thành viên, đổi mới cơ chế quản lý đạt nhiều bước tiến quan trọng trên tinh thần tinh giản, gọn nhẹ, chuyên nghiệp, lấy hiệu quả công việc làm thước đo, lấy khách hàng làm đối tượng phục vụ theo tiêu chí "Tổng công ty Điện lực miền Bắc vì sự phát triển của cộng đồng".
Giai đoạn 2010-2014 là giai đoạn có nhiều diễn biến khó khăn và phức tạp. Đây là giai đoạn Tổng công ty phải hứng chịu nhiều cơn bão và lũ lụt lớn gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, trang thiết bị lưới điện, bên cạnh đó là sự tác động mạnh mẽ của suy thoái kinh tế trong nước, khu vực và trên thế giới, giá cả leo thang, lãi suất tín dụng ở mức cao, khó tiếp cận với nguồn vốn vay thương mại,... đã có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của Tổng công ty.
Khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, năng động, sáng tạo, luôn bám sát thực tiễn là phương châm hành động của các đồng chí trong Ban Lãnh đạo Tổng công ty, Lãnh đạo các Đơn vị thành viên cùng với sự cố gắng nỗ lực của các cán bộ, công nhân viên và người lao động trong toàn Tổng công ty đã góp phần hoàn thành và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được Tập đoàn Điện lực Việt Nam giao cho.
Trong sản xuất kinh doanh, tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của Tổng công ty vẫn giữ được ổn định từ 11-12%; ổn định việc làm và thu nhập cho người lao động, thu nhập bình quân đầu người hằng năm tăng 7-8%.
Trong đầu tư phát triển, Tổng công ty đã ưu tiên tập trung đầu tư phát triển lưới điện, đặc biệt là các công trình trọng điểm cấp điện cho các khu công nghiệp lớn tại tác tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Hà Tĩnh,... bên cạnh đó Tổng công ty cũng luôn trú trọng công tác phát triển lưới điện trung áp và hạ áp nông thôn đáp ứng được yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế, chính trị, ổn định an ninh quốc phòng trên địa bàn các tỉnh, thành phố thuộc phạm vi quản lý của Tổng công ty.
Trong những năm gần đây, Tổng công ty Điện lực miền Bắc đã trú trọng và thực hiện đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý, điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ lãnh đạo và quản lý các cấp từ Tổng công ty đến các Điện lực, tạo điều kiện đáp ứng kịp thời và đủ sức chủ động giải quyết những vấn đề mang tính cấp bách, trọng điểm theo yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của từng địa phương, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Năm 2014, là năm mang dấu ấn có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn đối với Tổng công ty, đó là việc Tổng công ty hoàn thành dự án đầu tư xây dựng đường dây cáp ngầm xuyên biển đưa điện ra huyện đảo Cô Tô, huyện đảo tiền tiêu của Tổ quốc, nơi duy nhất Bác Hồ đã cho dựng tượng của Người khi còn sống trong lần ra thăm đảo năm 1961. Đây cũng là huyện cuối cùng của miền Bắc Việt Nam được cung cấp điện lưới quốc gia. Với tinh thần "thần tốc, táo bạo và sáng tạo", với thời gian kỷ lục chỉ với 345 ngày đêm lao động, dự án đã hoàn thành và đóng điện thành công đúng tiến độ đảm bảo chất lượng, an toàn về người và các trang thiết bị, vật tư góp phần bảo vệ quốc phòng, an ninh vùng biển Đông Bắc – nơi địa đầu của Tổ quốc.
Qua 50 năm không ngừng trưởng thành và phát triển, qua nhiều lần đổi tên, thay đổi cơ quan chủ quản, thay đổi về mô hình tổ chức, Tổng công ty Điện lực miền Bắc đã có những bước đi vững chắc, vượt qua những khó khăn thách thức, từng bước phát triển và không ngừng lơn mạnh, luôn khẳng định được vai trò, vị trí nòng cốt của mình trong sự nghiệp phát triển ngành Điện lực Việt Nam.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Tổng Công ty Điện lực miền Bắc luôn chấp hành và tuân thủ các quy định của Nhà nước. Trong đầu tư phát triển, Tổng Công ty Điện lực miền Bắc đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, các địa phương từng bước tập trung các nguồn vốn đầu tư phát triển lưới điện để kịp thời cấp điện phục vụ cho các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các ngành, các doanh nghiệp, các địa phương và nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt của nhân dân, từng bước góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội của địa phương phát triển, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, an ninh quốc phòng, đặc biệt là vấn đề an sinh xã hội trong khu vực các tỉnh miền Bắc Việt Nam góp phần thiết thực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến hết năm 2013, trên địa bàn 27 tỉnh, thành phố miền Bắc do Tổng công ty Điện lực miền Bắc quản lý và cung ứng điện có 100% số huyện, 99% số xã, 96,9% số hộ dân nông thôn có điện lưới có điện lưới quốc gia./.